80s toys - Atari. I still have
CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  VƯƠNG QUỐC NHỮNG KẺ LẠ MẶT


Phan_12

“Tôi sẽ cử năm người - các anh đều biết nhiệm vụ rồi đấy - bí mật theo dõi ở khu vực cầu trên phố Sitteen.” Ông nói tiếp. “Rất có khả năng đó là nơi tên giết người đã tìm những nạn nhân đầu tiên.” Đến đây thì ông lúng búng, cảm thấy mình đang mất tập trung. Đừng ngó ngẩn vậy, ông thầm nhủ. Sabria không bị tên giết người bắt cóc. Hắn không có đủ thời gian để lên kế hoạch cho việc đó. Điều đó là không phù hợp. “Như vậy là những ai được cử đến Sitteen sẽ tập trung để nhận diện các nạn nhân. Chúng ta sẽ cố gắng để xác định mối liên quan giữa họ, và cho đến giờ chúng ta không có gì hơn ngoài đặc điểm về dân tộc. Tiến sĩ Becker đã nói rằng tên giết người thường chọn nạn nhân ở một nơi thân thuộc, như vậy tất cả những nạn nhân hẳn phải có mối liên hệ với khu vực cây cầu đó. Tiếp nữa, đối với những ai sẽ tìm thông tin qua các hồ sơ, tôi muốn các anh tập trung vào bất cứ đối tượng nào có mối liên hệ với khu vực Kandara. Thám tử Osama Ibrahim đã nhận lời sẽ chỉ điều tra vụ al-Fouad thôi.”

Ông nhanh chóng phân chia các công việc còn lại. Khi ông hoàn tất, Osama bước lên trước để nhận đội của mình và đưa họ tới văn phòng khác để chỉ dẫn tường tận. Những người được phân công hoạt động ở Sitteen bước lên trước. Ibrahim nhẹ lòng khi thấy đám đông đang giải tán. Chỉ có Mu'tazz bị gạt lại bên ngoài. Ông ta không thuộc về đội nào cả, vì kẹt với công việc văn phòng. Nhưng ông ta vẫn ở phía cuối phòng với vẻ cảnh giác.

Chương 22

Văn phòng làm việc của Sở cảnh sát Jeddah giống phòng spa hơn là phòng tổng đài. Những chậu cấy cọ cảnh lớn, những tấm thảm nhung, cách bài trí trung tính và mức độ yên tĩnh của một khách sạn năm sao. Tất cả như phá tan cái suy nghĩ đó là một phòng tổng đài. Không có một lời ồn ào hay lớn tiếng, chỉ có các nhân viên điềm đạm với giọng nói ân cần. Họ quyết tâm giữ gìn quy tắc bảy-phút: không lâu hơn khoảng thời gian đó, cảnh sát đáp lại bất cứ cuộc gọi nào. Họ thậm chí còn hỗ trợ những người có yêu cầu cuộc gọi báo thức, do số điện thoại khẩn 999 lại không may giống với số điện thoại lễ tân 99 của hầu hết các khách sạn.

Sở trưởng Hamid lúc nào cũng có vẻ giống hướng dẫn viên du lịch hơn là lãnh đạo Sở. Ông dẫn Ibrahim đến một dãy máy vi tính ở một bên căn phòng và xin phép ra ngoài một lát. Khi quay trở lại - Ibrahim đã bấm giờ đúng sáu phút rưỡi - ông mang theo băng ghi âm cuộc gọi của người đàn ông đã thông báo về việc Sabria mất tích. Ibrahim ngồi xuống bên quầy và nghe đoạn hội thoại bằng tai nghe.

“Vâng.” Giọng người đàn ông đó nói. “Tôi muốn thông báo về việc mất tích của người hàng xóm.”

“Rất tốt, thưa ông, tôi sẽ nối máy cho ông tới bộ phận Người mất tích.”

“Không, tôi không có thời gian đâu. Tôi chỉ muốn để lại tên cô ấy và địa chỉ nhà thôi.” Anh ta đưa ra thông tin như thể đọc từ một tấm danh thiếp, làm nhân viên văn thư không kịp phản ứng gì. “Cô ấy đã không ra vào căn hộ của mình mười bảy ngày rồi.”

“Được rồi, thưa ông.” Nhân viên văn thư nói. “Cảm ơn...”

Người đàn ông đó gác máy trước khi nhân viên nói hết câu.

Ibrahim nghe đi nghe lại. Ông không nhận ra giọng nói đó. Lúc đầu, nó nghe có vẻ như vội vàng và cáu kỉnh, nhưng càng nghe ông càng nhận ra nó không hề diễn cảm. Ông không thấy sự nôn nóng; anh ta chỉ làm bộ như vậy. Tôi không có thời gian đâu. Nhưng giọng nói lại đều đều và điềm tĩnh.

Người đó là ai được nhỉ? Tôi không có thời gian đâu. Anh ta chỉ nói như vậy vì không muốn nói chuyện với bộ phận Người mất tích. Anh ta không muốn trả lời câu hỏi của bất cứ ai. (Anh là ai? Tại sao anh lại để mắt đến căn hộ của một phụ nữ chứ? Cô ấy có sống một mình không? Người tìnhcủa cô ấy đâu?). Những cuộc gọi ẩn danh là chuyện khá bình thường, nhưng Ibrahim e rằng ông đang được nghe giọng của chính kẻ bắt cóc.

Katya đã rời khỏi căn hộ của Sabria khi ông đến đó, và như vậy là đã quá muộn. Ngay lập tức ông gọi cho cô. Cô nói rằng cô không chắc liệu mình đã thu thập tất cả bằng chứng hay chưa. Có thể họ đã gửi một số bằng chứng cho Đội Điệp vụ. Đội Trọng án đã nói rằng đang quá tải với việc xử lý các bằng chứng của vụ Thiên sứ rồi.

Suốt một giờ đồng hồ sau đấy ông cố gạt bỏ nỗi hoảng hốt, tâm trí ông như quay cuồng bạt tử trên một chiếc đu nhào lộn. Liệu họ sẽ phát hiện ra ông chính là người tình của cô không? Hay họ chỉ đơn giản cho rằng đó là DNA của chồng cô ấy? Liệu cuộc gọi có phải của Omar không? (Hẳn là anh đã chắp nối các chi tiết lại với nhau - còn lý do gì khác mà Ibrahim lại đề nghị mượn các hồ sơ đó chứ?) Hay Omar đã tự nhủ đó chỉ là công việc và không bao giờ đề cập đến vấn đề này nữa?

Lạ thay, không có gì xảy ra cả. Mọi người trong tòa nhà đã đi ăn trưa. Vụ Thiên sứ đã chiếm hết thời gian của họ. Vài người không làm việc ở hiện trường thì đang xem lại các hổ sơ vụ án. Ibrahim đã đến gặp đội pháp y và đã nói chuyện về vụ Thiên sứ với Majdi, người hiện đã quá căng thẳng. Khi ông thử tìm hiểu xem liệu họ có đang xử lý những bằng chứng nào khác không, thí dụ như bằng chứng thu thập được ở căn hộ của Sabria chẳng hạn, Majdi chỉ gạt đi. Họ quá bận rộn để bận tâm đến thứ gì khác ngoài vụ Thiên sứ.

Ông mở lại cuộn băng. Cô ấy đã không ra vào căn hộ của mình mười bảy ngày rồi. Điều này chính xác quá mức. Tên bắt cóc biết chính xác hắn bắt giữ cô được bao lâu. Nhưng trời ạ, tại sao hắn lại muốn cảnh sát tìm hiểu chứ?

“Đây là dấu vết.” Sở trưởng Hamid đưa cho ông một mẩu giấy. “Nó là thẻ điện thoại dùng một lần. Có vẻ cuộc gọi là từ vùng phụ cận của Trung tâm thương mại Biển Đỏ.”

“Nó có phải một trung tâm thương mại rất lớn không?” Ibrahim hỏi.

“Đúng vậy, mười tám lối vào và bốn nghìn chỗ đỗ xe. Ông phải dùng xe điện để đi quanh đó. Nhưng chúng tôi dò được anh ta ở gần lối vào Danube khi thực hiện cuộc gọi.”

“Đó có lẽ là lối vào đông nhất.” Ibrahim nói.

“Đúng vậy. Tôi lấy làm tiếc.”

“Chúng ta có thể xác định được nơi anh ta mua thẻ điện thoại không?”

“Có, nhưng việc đó sẽ phải mất một tuần.” Trong cái thế giới của tiêu chuẩn bảy phút, thì bảy ngày quả là không đáng để cân nhắc.

“Hãy cho tôi biết những gì các anh tìm được.” Ibrahim nói. Ông cảm ơn Sở trưởng rồi đi khỏi.

Nhà không có ai. Mọi người đã dự đi đám cưới của gia đình hàng xóm và ông cũng phải có mặt ở đó. Nhưng chú rể, con trai của một gã không bao giờ nói được lời tử tế nào về Ibrahim, Omar hay bất cứ ai thuộc dòng họ Zahrani trong vòng bán kính của hai mươi tòa nhà, chỉ là một đứa không hơn một con lừa như bố nó. Ibrahim tự thấy chẳng có gì phải áy náy khi quyết định ở nhà.

Ibrahim đứng trong bếp pha trà và chờ cho than đá bén lửa trong chiếc điếu ống. Gian bếp là một căn phòng vuông vức lúc nào cũng có cảm giác tối tăm và quá rộng. Phụ nữ trong gia đình ông chẳng bao giờ thấy vui vẻ ở đấy cả. Họ chặt thái và gọt vỏ các loại củ quả ngoài phòng khách, ngay phía trước cửa bếp. Một chậu cây bạc hà héo úa đặt trên bậu cửa sổ, những chiếc lá quăn lại vì hơi nóng.

Ông lững thững bước sang phòng khách. Qua cánh cửa phòng tắm ông thấy mấy con búp-bê Barbie của cháu gái đang ngồi trong bồn rửa. Phòng tắm đầy ngập quần áo bẩn.

Ông đi vào phòng may vá, căn phòng cấm. Jamila đã tuyên bố như vậy cũng như việc ông tuyên bố tương tự với phòng khách nam giới. Ở đây có chiếc máy may - một con quái vật đen sì với chiếc bàn đạp - và tủ quần áo chất ngất của bà ta. Bên trong đầy ứ những bộ đồ nhìn đã phát ngán, bộ nào bộ nấy vừa vặn với thân hình ngoại cỡ của bà ta. Bà ta thường xuyên chăm chút ăn diện; những bộ đồ đó được chưng theo kiểu cách của những phụ nữ mà bà ta không bao giờ trở thành được mặc dù rất muốn: văn nghệ sĩ, rồi doanh nhân, hay lữ khách. Bà ta có thể ngồi hàng giờ bên chiếc máy may để hoàn thiện từng đường kim mũi chỉ, nhưng rốt cuộc thì lúc nào cũng khoác lên mình bộ váy khỉ đột đó.

Tòa nhà khiến ông thấy ngột ngạt. Không gian tối tăm và oi nồng, cát từ ngoài sa mạc thổi tung vào ngay dưới chân cửa, cái nắng len qua những khe hở trên tường. Đã nhiều năm rồi ông nghĩ đến việc chuyển đên một nơi ở mới, nhưng Omar ở ngay tòa nhà bên cạnh, anh họ Essam của ông lại ở ngay dưới tòa nhà, và chuyện có vẻ không đến mức phải chuyển tất cả đi nơi khác chỉ vì có phòng ốc tốt hơn, có cảnh đẹp hơn.

Ông mang trà và than đá lên tầng thượng, nhưng ở đó cũng không thoát được hình ảnh của Jamila. Suốt hơn hai mươi tư năm qua, hình ảnh bà ta như in hằn trên mỗi vết rạn nứt của những bức tường bê-tông này. Họ cưới nhau từ năm mười tám tuổi, một cuộc hôn nhân sắp đặt nhờ cha mẹ, giống như Zaki. Cuối những năm cấp hai, ông đã yêu một người khác: Maidan. Đó là một cô gái người Philippines mà ông gặp trên phố khi cùng đi bộ từ trường về nhà.

Ông chưa bao giờ nhớ chuyện đã xảy ra thế nào, nhưng sau một thời gian ông đã mượn ô-tô của Omar để đón cô ở trường. Cho tới giờ ông cũng không hiểu làm thế nào ông lại tự xưng là anh trai của cô nữa. Chuyện của họ có thể đã khác đi rất nhiều. Ông có gương mặt mang những nét đặc trưng của một dòng họ Bedouin cổ điển - mũi dài, da ngăm đen, và đôi mắt hạnh nhân màu nâu sâu thẳm - được thừa hưởng từ họ ngoại. Maidan người thấp, nước da sáng, dáng tròn với những đường cong mềm mại. Họ dành những buổi chiều ở bên nhau trên bãi biển, ở những hội chợ, hay đơn giản chỉ lái xe qua sa mạc. Ông rất muốn hôn cô nhưng chưa bao giờ có can đảm để chủ động cả. Một lần cô phải đề nghị ông hôn mình, và ông làm theo, nhưng nó khiến họ sợ đến mức không bao giờ làm vậy nữa. Họ đã lên kế hoạch kết hôn.

Trong suốt sáu tháng, họ hầu như gặp nhau hằng ngày ngoại trừ cuối tuần, khi ông phải ở nhà theo yêu cầu của gia đình. Và rồi một hôm khi ông đến trường đón cô thì cô giáo chủ nhiệm đến nói chuyện với ông. Bà ta đứng bên chiếc cổng sắt ngay lối vào trường và nói với ra phía ô-tô của ông. “Maidan đã rời Ả Rập Xê-út rồi. Tôi tưởng là anh trai cô bé thì anh biết chuyện rồi chứ.” Thậm chí bà ta còn lườm ông một cái trước khi quay trở vào trường nữ sinh. Cổng đã đóng và ông không bao giờ gặp lại Maidan nữa.

Ông chưa bao giờ gặp gỡ gia đình cô. Ông thậm chí còn không biết cô sống ở căn hộ nào, chỉ biết là ở một tòa nhà. Ông đến đó, tuyệt vọng, và một người hàng xóm ở tầng dưới đã xác nhận gia đình người Philippines đó đã chuyển đi rồi.

Suốt bao nhiêu ngày ông hồi tưởng lại mối quan hệ của họ. Từng lời nói, từng cử chỉ, những lời ngợi khen đều mang nghĩa mới khi ông đào xới lớp bề mặt mỏng manh để tìm bản chất. Sao cô không hề nói với ông rằng cô sẽ ra đi chứ? Có phải cô đã định rời bỏ ông ngay từ đầu rồi không? Cô đã nói dối, giờ thì ông đã hiểu, nhưng nói dối đến mức nào? Và từ khi nào?

Và trên hết sau tất cả mọi chuyện: liệu cô có thực sự yêu ông không?

Cuối cùng thì ông đành chấp nhận rằng cô là một kẻ hèn nhát, và điều ông mong muốn ở một người phụ nữ là sự mạnh mẽ, đặc điểm mà những người phụ nữ tuyệt vời nhất luôn có, khả năng để nói với ông rằng khi nào thì chấm dứt mối quan hệ. Đó chính là điều ông nói với mẹ khi bà đưa ra ý tưởng về cuộc hôn nhân sắp đặt cho ông.

“Con muốn một người phụ nữ có thể đứng về phía con.”

Ông không hề hiểu lúc đó ông đang nói gì. Ông chỉ biết đến sự đau khổ của những lời đó: con muốn một người phụ nữ sẽ không bao giờ rời bỏ con mà không một lời giải thích.

Một phần trên gương mặt mẹ ông thấp thoáng nụ cười tinh quái; một phần lại nhìn ông đầy nghi hoặc. “Chỉ một người đàn ông mạnh mẽ mới phát ngôn như vậy.” Bà đã nói với niềm hãnh diện nhất định. “Nhưng thật lòng mẹ sẽ nói với con điều này, Jamila là người phụ nữ mạnh mẽ nhất mà mẹ biết.”

Sau khi suy nghĩ, ông phải thừa nhận rằng bà nói đúng. Jamila là người mạnh mẽ, nhưng chỉ là bề ngoài.

Lúc đó ông đã bật dậy khỏi ghế sô-pha và ào vào phòng khách hét ầm lên. “Con nói lần cuối và sau chót, con sẽ không lấy Jamila al- Brehm. Thật điên khùng!” Ông sục chân vào đôi xăng-đan rồi ra khỏi nhà, đóng sập cửa sau lưng mình.

Hai tháng sau, họ làm đám cưới.

Vấn đề thực sự nằm ở chỗ họ đã được hứa gả cho nhau từ khi sinh ra. Hai bà mẹ là bạn thân. Có hơi lạ thường một chút khi lời giao ước như vậy lại là giữa những người bạn chứ không phải giữa các gia đình, nhưng hai bà mẹ đã có mối giao kết gắn bó. Trong suốt mười tám năm, họ luôn giữ lời hứa. Cuộc hôn nhân giữa hai đứa trẻ sẽ giúp hợp pháp hóa mối quan hệ giữa hai gia đình của hai người phụ nữ, như thể cái mối giao kết phóng đại của họ cần phải được gắn chặt thêm vậy.

Và, giống như Zaki, ông mất ba tháng để nhận ra mình đã phạm sai lầm kinh khủng. Nhưng khi đó, Jamila đã có thai Aqmar, và chẳng thể làm được gì nữa.

Ông đặt chiếc ống điếu xuống. Làn khói cô đơn khiến ông cảm thấy đau khổ. Ông mong ở nhà một mình sẽ khiến ông không day dứt về Sabria, nhưng ông chỉ chìm sâu hơn vào những kỷ niệm xưa cũ. Tất cả đưa đến một ý nghĩ, không hẳn là đặc biệt, rằng Sabria chính là người phụ nữ tuyệt vời nhất ông từng biết. Không phải Jamila, không phải Maidan. Cô là người đàn bà ông đã lựa chọn, và không chỉ đơn thuần là biến mất.

Ông đổ hết phần nước chè còn lại vào chỗ than và rời khỏi nhà.

Chương 23

Mẹ Katya đã dạy cô về những giấc mơ: Nafsani, là những giấc mơ bắt nguồn từ nỗi sợ hãi và niềm khao khát. Rahmani, những giấc mơ được Chúa trời gửi đến và thường sẽ cho ta biết những mộng cảnh về tương lai. Còn shaytani, đó là những giấc mơ xuất phát từ điều xấu xa.

Khi còn nhỏ cô thường hỏi mẹ liệu mơ thấy những lời tiên đoán có phải là điều báng bổ thánh thần hay không, và mẹ cô trả lời rằng giải nghĩa giấc mơ không giống như một lời tiên đoán. Điều đó không chống lại Hồi giáo. Chẳng phải Joseph, con trai của Jacob đã thành công khi giải nghĩa những giấc mơ của vị vua vô danh đó sao? Vậy giấc mơ của Katya, bà hỏi, giấc mơ đó là gì mà khiến cô buồn rầu đến vậy?

Katya nói Thánh lý dạy rằng điều quan trọng là không nói ra những giấc mơ xấu của mình, nếu chúng xuất phát từ những điều xấu. Nhưng mẹ cô đã đáp lại bằng một Thánh lý nói rằng người ta chỉ nên nói với một người, đó là người thân thiết nhất và là người họ tin tưởng nhất. Katya nghĩ Thánh lý của mẹ nghe có vẻ hợp lý hơn của mình.

Do vậy họ ngồi xuống và thống nhất là giấc mơ bị mất chiếc răng của Katya thực ra là điểm gở. Những chiếc răng được quan niệm là gia đình, “tất cả những chiếc răng được xếp gọn ghẽ trong khoang miệng,” mẹ cô đã nói vậy, “và khi một chiếc rơi ra, điều đó có nghĩa là một người nào đấy sẽ bỏ đi, hoặc sẽ chết.”

“Giấc mơ đó có đáng sợ không con?” Mẹ cô hỏi.

“Không ạ, con không thấy sợ. Chỉ thấy kinh tởm thôi.”

“Thế nó là chiếc răng nào vậy con?”

“Là răng hàm ạ.”

Y như rằng, một tuần sau đấy, ông cậu Ramzi của Katya chết ở Li-băng, và những giấc mơ kia cũng chấm dứt.

Đã nhiều năm rồi Katya không còn nhớ chuyện đó nữa. Nó khác biệt hoàn toàn với những giấc mơ của cô giống như sự tiên đoán chính xác. Hoặc có lẽ là khi mẹ mất, cô không biết làm thế nào để giải nghĩa những giấc mơ nữa.

Cô đang ở nhà, ngồi bên chiếc bàn bếp có mặt bằng formica trên bốn chân kim loại, bâng quơ với những kỷ niệm thời thơ ấu. Ti-vi vẫn mở, nhưng để lặng tiếng, trên chiếc giá trước mặt cô. Hôm đó là thứ Bảy, và Abu đã đi đến lễ cầu nguyện tối với bạn của ông. Khi ông vừa đóng cửa ra ngoài, cô lôi từ trong ba-lô ra một tập tài liệu và gạt ra những tấm ảnh.

Ngay trước khi rời khỏi phòng làm việc, cô đã thu hết can đảm để lẻn vào phòng thí nghiệm của Majdi và sao lại những bức ảnh khu mộ chôn. Chúng được photo, nhưng cũng đủ rõ. Cô cũng chụp lại bản đồ những vị trí tìm được của từng thi thể ở khu mộ đó. Giờ thì cô dọn sạch bàn bếp và đặt những bức ảnh lên như thể chúng hiện ra dưới con mắt một con chim đang nhìn xuống sa mạc.

Chiếc bàn không đủ rộng. Cô cần một diện tích rộng gấp năm lần thế. Tốt hơn hết, cô nên treo chúng lên bờ tường. Hẳn cô đã làm thế trong phòng thí nghiệm, nhưng ở đó cũng không có đủ không gian như ở nhà - có quá nhiều giá và lỗ thông khí của điều hòa nhiệt độ. Phòng ngủ của cô cũng vậy thôi. Có một bức tường rất lớn trong phòng khách, nhưng cô không muốn chưng những hình ảnh về xác chết ở đó khi rất có thể bố cô sẽ đưa bạn từ nhà thờ về nhà. Họ chưa bao giờ có phòng khách cho nữ cả, đó chính là nhà bếp, mà bếp thì lại quá nhỏ và bề bộn.

Điểu gì là sự khác biệt giữa mộng tưởng và giấc mơ? Charlie nói về mộng tưởng của tên sát nhân, như những giấc mơ - tất nhiên là loại shaytani rồi. Chính Katya cũng có rất nhiều giấc mơ như thế. Nhưng Charlie đã mô tả nó như một thứ lớn hơn thế, một kiểu anh hùng ca tái diễn lại những shaytani có tồn tại trong đời sống thực nữa, chỉ có khác biệt là nó nặng về mưu cầu cá nhân. Hãy tìm những quy luật, Charlie đã nói với cô trong bữa ăn trưa như vậy. Với một tên giết người có tổ chức như tên này, hẳn sẽ có quy luật.

Katya tiếp tục đặt ảnh lên bàn. Cô không biết sẽ phải bắt đầu tìm kiếm quy luật bằng cách nào nhưng chỉ đoán rằng bước đầu tiên là phải hiểu suy nghĩ của tên sát nhân đó, và vì vậy, cô cần một tấm bản đồ.

Ayman bước vào bếp với vẻ buồn ngủ. Cậu nhấc ấm trà từ trong bồn lên và đổ nước vào.

“Em tưởng chị định đi mua sắm cơ mà.” Cậu nói.

Katya bật dậy khỏi ghế. “Allah, chị quên mất!” Cô gạt những bức ảnh vào tập tài liệu và nhìn đồng hồ đeo tay. Đáng lẽ cô phải gặp Nayir từ nửa giờ trước rồi. “Ôi trời ơi, chị muộn quá rồi!”

“Chị cần chở đi không?”

“Có!”

Ayman đặt âm trà xuống và đi ra cửa.

Đoạn tin tức quả thật kinh hoàng. Mọi người đều xem nó với cảm giác hoài nghi ớn lạnh. Không phải vì họ chưa từng thấy những cảnh bạo lực, hay chưa thấy một phụ nữ với khuôn mặt bị rách nát, bị bỏng và bị đánh như vậy. Tất nhiên chuyện đó tác động đến tất cả mọi người, nhưng điều thực sự khiến họ khó chịu là cuộc phỏng vấn gọn ghẽ với người bị cho là có liên quan đến vụ án. Bà ta ngồi im lặng trong một căn phòng ngập tràn ánh nắng cùng hai đứa con trai ở hai bên, với dáng vẻ của một bà nội trợ Ả Rập Xê-Út hoàn hảo, tấm khăn che mặt trang nhã buông phủ trước mặt, đôi mắt đen u sầu trước sự dò xét của máy quay phim. Bằng giọng dịu dàng bà ta giải trình rằng mình không bao giờ làm hại cô giúp việc. Bà ta coi cô gái đó như chị em của mình. Chính cô giúp việc đó - người đã bị đánh đập và khuôn mặt bỏng nát sẽ không bao giờ trông giống con người được nữa - cô ta đã tự mình gây ra những điều ấy.

Katya đang đứng trong phòng thay đồ của hiệu áo cưới trong bộ váy sáng màu ngà voi. Hai phụ nữ Philippines phía sau cô đang nhặng xị cả lên, và người chủ hiệu váy tên là Jo đang đỡ phần đuôi váy.

“Con điếm khôn nạn.” Jo lẩm bẩm trước TV. Những phụ nữ này tin Katya, nhưng một cô gái liếc nhìn cô, lo là cô có thể khó chịu trước những từ ngữ đó.

“Đính nó lại.” Jo đẩy phần đuôi váy sang cho một cô gái rồi bò ra khỏi phòng.

Không khí có phần thoải mái hơn, và đôi tay các cô gái đều bận bịu. Đã mấy hôm rồi Katya không xem tin tức. Hết vụ điều tra về Sabria rồi đến vụ Thiên sứ, công việc đã chiếm lĩnh mọi suy nghĩ của cô, có thể là vì cô đang lảng tránh việc nghĩ ngợi về đám cưới. Ngay cả khi cô và Nayir ngồi trong chiếc Rover ra ngoài sa mạc, câu chuyện lúc nào cũng là về công việc của cô.

Cô nghĩ, nếu là một đám cưới Ả Rập thực sự, thì điều trước tiên họ cần làm là tìm hội trường cưới. Một hội trường cho nam giới, và một hội trường lớn hơn cho nữ giới. Hội trường cưới của cô sẽ phải thoáng rộng: có sân khâu, có lối đi, bàn ăn cho một nghìn người. Thảm trải màu hồng, chúc đài bằng vàng, hoa trắng tràn ngập khắp mọi nơi. Cô không biết hội trường của nam giới trông sẽ thế nào - thực tế là cô chưa từng vào hội trường nam giới nào cả - nhưng chắc nó cũng giống với hội trường của nữ thôi. Cô đã gặp vị hôn phu của mình lần đầu ở một đám cưới. Othman đã kể với cô về những chiến binh Bedouin nhảy múa với thanh kiếm trong tay, và chú rể ngồi trên ngai vàng, hơi cổ lỗ xỉ, rồi nhận lời chúc từ tất cả mọi người: “Anh sẽ làm nhiều tiền, cô ấy sẽ sinh nhiều con.”

Bên nữ thì ít nghi thức hơn. Mọi người chúc mừng cô dâu, nhưng các bà mẹ và những phụ nữ lớn tuổi sẽ đi khắp hội trường để điều tra kỹ các cô gái độc thân. Con trai họ sẽ không được phép gặp gỡ những cô gái này trước khi kết hôn, nhưng các bà mẹ thì được phép, và họ sẽ điều tra kỹ càng và mong tìm được những đối tượng phù hợp với con trai mình - hay, nói đúng ra, là những đối tượng phù hợp với chính họ. Nếu gia đình bị phân tán, những phụ nữ đó sẽ dành thời gian với nhau nhiều hơn là với chồng mình. Katya chưa bao giờ qua được những cuộc kiểm tra như vậy. Cô quá trầm tính và giản dị. Cô chẳng bao giờ hứng thú với những chiếc váy lộng lẫy, và cô không có thời gian mà cũng không muốn dành cả một ngày trời chỉ để chải chuốt. Cô cũng không có đủ đồ trang điểm nữa kia.

Cô và Nayir đã thống nhất sẽ có một đám cưới nhỏ gọn và giản dị. Hơn nữa, một người không có họ hàng đông đến mức cần có hội trường cưới. Với lại Nayir muốn được lo tìm địa điểm. Việc chủ yếu của Katya chỉ là chọn váy cưới.

Nếu đây là một đám cưới Ả Rập thực sự, cô nghĩ, thì gia đình mình đã ở đây lúc này. Mẹ, các chị em gái và chị em họ. Mọi người sẽ giúp mình chọn trang phục cho ngày trọng đại nhất của cuộc đời mình.

Năm phút sau, Jo trở lại phòng. Cô ta nói với Katya: “Tôi xin lỗi. Chỉ là tôi không chịu được cảnh đó.” Cô ta ra hiệu về phía ti-vi. “Chuyện đó chẳng bao giờ chấm dứt cả.”

“Nó thật kinh khủng.” Katya không muốn nói với cô ta rằng có những thứ còn tồi tệ hơn đánh đập rất nhiều. Rằng theo hồ sơ của cảnh sát, gần 60 phần trăm những nạn nhân bị giết hại không nhận dạng được là những phụ nữ giúp việc. Và mới vừa rồi họ đã tìm được mười chín người như thế.

“Màu này rất hợp với cô.” Jo nói. “Cô thử nhìn xem.”

Katya xoay người ngắm mình trong gương. “Tôi thích màu này.” Cô nói. “Nhưng phần ngực rườm rà quá.”

Jo gật đầu và trở vào phòng thay đồ dự phòng, nơi treo hàng tá váy khác.

Giữa chừng thử chiếc váy thứ tư và thứ năm, Katya lén đến bên cửa sổ trước nhìn ra phố, được che bởi một tấm rèm đen nặng trĩu. Cô kéo rèm và ngó ra ngoài.

Trời đã tối và khu vực mua sắm bên ngoài sáng trưng với hàng trăm ngọn đèn dây màu vàng và một chiếc đèn lồng hình ngôi sao khổng lồ. Đứng ngay dưới chiếc đèn lồng đó, Nayir và Ayman đang uống nước quả ép và trò chuyện. Ayman nói điều gì đó khiến cho Nayir ngả đầu về phía sau cười ngặt nghẽo. Quả là trời định. Ayman là người em họ tốt nhất mà cô có thể ước mình có được.

Hạ tấm rèm và bước trở vào, Katya cảm thấy nhói lên... Sự đố kỵ? Hay buồn nhỉ? Cô chưa bao giờ có thể làm Nayir cười được như thế. Với cô, anh lúc nào cũng tế nhị và chở che.

Đã một giờ đồng hổ, hết thay ra rồi lại thử vào những chiếc váy khác nhau. Katya đáng ra thích thú với việc đó, nhưng sự giận dữ của Jo khiến cô kiềm chế cảm xúc. Mấy cô gái giờ đã im lặng. Katya gạt bỏ tâm trạng và lắng nghe khi Jo bắt đầu tâm sự những suy nghĩ giày vò của mình. Chuyện xảy ra hồi đầu năm, có vẻ là một vụ tự tử. Một cô giúp việc định treo cổ, một người khác thì uống thuốc tẩy, người thứ ba thì nhảy từ nóc tòa nhà xuống. Không kinh khủng như vụ người phụ nữ bị chủ đóng hai mươi tư chiếc đinh nóng vào mặt, vào hai bàn tay và hai cánh tay (chuyện đó xảy ra vào tháng Tám từ một năm trước). Hay vụ một cô gái ở Abha bị chủ nhà đánh đập, gây bỏng, rồi nhốt lại và cắt đứt hai môi (vào tháng Mười một.) Đó là chưa kể đến vụ hai xác chết không nhận diện được được tìm thấy vào tháng sau đó (có được đưa trên bản tin).

Vào tháng Một, câu chuyện có phần khác đi - và nó tạo cho Jo ít nhiều hy vọng, tuy muộn nhưng là có hy vọng. Một phụ nữ Ả Rập đã bị kết án ba năm tù vì hành vi bạo lực đối với cô gái trong vụ xảy ra vào tháng Mười một. Nhờ có bộ luật mới được thông qua, việc bỏ tù người phụ nữ đó cuối cùng đã được thi hành.

Nhưng chỉ vài tuần sau, một người giúp việc khác bị bắt vì sử dụng “tà phép” đối với chủ nhà và gia đình ông ta - hay ít nhất là do người chủ khai báo như vậy (xảy ra vào tháng Hai). Rồi thì cô gái nhảy từ ban-công tầng ba để chạy trốn gia đình đó đã được tìm thấy trong tình trạng bị đánh đập dã man và bị gây bỏng (vụ tháng Ba). Jo đã đánh dấu các tháng còn lại, cho đến sự việc đột ngột trong tin tức của tối hôm nay: vụ tháng Mười.

Katya chưa từng biết người giúp việc bất hạnh nào. Làm việc quá tải và kiệt sức, tất nhiên, bị phiền nhiễu bởi lũ trẻ ồn ào, hẳn rổi. Nhưng bị ngược đãi? Không hề. Và cho đến hôm nay, mỗi người giúp việc cô biết đều đã chết hay bị tổn hại sâu sắc hoặc cả hai. Cô tự nhủ rằng có thể do cô làm việc trong ngành cảnh sát.

Dần dần, những lời đả kích của Jo mở rộng phạm vi; không chỉ còn bó gọn trong những vụ án ở trên, cô ta bắt đầu đổ tội cho cả đất nước.

“Người ta để đám đàn ông chỉ bảo những người phụ nữ của họ từng việc được và không được phép làm. Đám ông chủ cũng giống vậy. Họ được phép nói với người giúp việc bất cứ điều gì, và cô ta phải thực hiện điều đó!”

Katya nhận ra sự im lặng của cô đang bị hiểu lầm là đồng tình. Cô muốn rời khỏi đây. Cô không còn muốn mua váy nữa - đằng nào thì cũng không tìm được chiếc nào ưng ý ở đây cả.

Cô nhìn đồng hồ đeo tay. “Ôi không, tôi phải đi rồi! Em họ tôi sẽ nổi cáu mất.”

Cả ba người phụ nữ nhìn cô thất vọng. Có phải cô ta cũng chỉ đơn giản là một phụ nữ bị kiểm soát chăng?

Katya thay đồ rồi trùm áo lên. “Cảm ơn rất nhiều vì đã dành thời gian cho tôi.” Cô nói rồi hối hả chạy ào ra cửa.

Nayir bước chậm rãi hết mức để hưởng thụ từng phút giây ở bên cô. Ayman đã đi đâu đó nói chuyện điện thoại, và giờ thì chỉ có Nayir ở bên cô. Những khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong mối quan hệ của họ cho tới giờ đều diễn ra trong những lần đi dạo như thế này trên đường Comiche. Thậm chí anh đã cầu hôn tại một nhà hàng cách đây không xa.

Trời đã tối, nhưng đối với người Jeddah thì thực ra là ngày mới đang bắt đầu. Trời rốt cuộc cũng mát mẻ để có thể ra ngoài. Đối với Nayir, màn đêm đã phủ thêm một tấm màn riêng tư. Không có ánh mặt trời rọi qua tấm áo choàng của một người con gái và vẽ nên hình dáng. Không còn ánh sáng soi rõ những gương mặt để lộ mà phụ nữ dường như ngày càng thích thú hơn. Và phụ nữ đã hoàn toàn bỏ khăn trùm đầu - từ xa trông như thể mái tóc của họ chính là mạng che mặt. Ngày nay việc các gia đình cắm trại ở hai bên đường cùng với những cô con gái ở tuổi thành niên, thoải mái nô đùa trong quần jeans áo phông, tác phong mang vẻ nam tính như anh em trai của họ - thậm chí còn để tóc ngắn, đã phổ biến hơn nhiều. Cảm giác xâm lấn anh trước tất cả những điều đó là một sự mất mát và một nỗi buồn không thể diễn đạt được.

Anh để mặc cảm giác đó trôi qua trong tiếng thở dài, và nó cuốn đi như một đám mây mỏng manh trên nền trời thăm thẳm. Anh sắp làm đám cưới với người phụ nữ xinh đẹp này, người đang sánh bước cạnh anh. Anh sẽ sớm được thực hiện điều mà cơ thể anh hằng mong ước được làm từ lần đầu tiên anh gặp cô: bế bổng cô lên như một thứ nhỏ bé và hôn khuôn mặt cô hàng trăm lần, cuộn mình quanh thân thể cô, trần truồng và ngập tràn hạnh phúc. Anh cảm nhận được hơi ấm từ mái tóc và cổ của cô khi dạo bước bên cô, mỗi một mảnh vụn li ti trong con người anh đều cảm thấy được thắp sáng như một vì sao.


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_8
Phan_9
Phan_10
Phan_11
Phan_13
Phan_14
Phan_15
Phan_16
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23
Phan_24
Phan_25
Phan_26 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .